về với đền hùng
Soạn bài Những điều cần chú ý khi tham gia lễ hội Đền Hùng. Câu 5 trang 101 SGK Ngữ văn 10 Tập 1: Từ nội dung văn bản trên, hãy chuyển thành một bản tin ngắn (chỉ bằng kênh chữ) thông báo về thời gian, địa điểm và những hoạt động chính của lễ hội Đền Hùng năm 2019.
sau loạt bài đăng trên báo điện tử vietnamplus của thông tấn xã việt nam vào cuối tháng 3/2013 phản ánh về lỗi hán tự trong bức hoành phi ở đền trung (khu di tích lịch sử quốc gia đền hùng) và bức đại tự ở đền mẫu âu cơ (xã hiền lương, huyện hạ hòa), tỉnh phú thọ đã nhanh chóng chỉ đạo các ngành chức năng khẩn trương khắc phục những sai sót đáng …
Hàng năm, tại đây, Lễ hội đền Trần truyền thống vào dịp tháng 8 (âm lịch) và Lễ hội Khai ấn đầu năm đều được tổ chức. Đây là hai lễ hội lớn tại Nam Định, thu hút đông đảo nhân dân, khách thập phương về dự, thắp hương tưởng nhớ công đức của các vị vua Trần và Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Lễ hội đền Trần năm 2022 diễn ra đến hết ngày 25/9./.
KÊNH THÔNG TIN NHANH NHẤT VỀ THỂ THAO TRONG NƯỚC - QUỐC TẾHotline: 0983.663.092-------------------------------------------------Follow kênh 28Sport
Sao chép liên kết. Chuẩn bị cho Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng năm 2019, nhiều hạng mục công trình trong Khu Di tích lịch sử Đền Hùng đang được Phú Thọ khẩn trương được trùng tu, tôn tạo để đón đồng bào và du khách về giỗ Tổ. Để tạo cảnh quan đẹp mắt
Welche Dating Seite Ist Komplett Kostenlos.
Bài hát Về Với Đền Hùng - Thái Quảng Chúng con cùng nhau về với Đền Hùng Càng biết rõ hơn mình chung nguồn cội Chung Mẹ, chung Cha, chung ngày Lễ Hội Bắc-Trung-Nam chung một “đồng bào” Về Đền Hùng con thấm thía biết bao Với bậc sinh thành phải trọn đời hiếu thảo Thơm ngon, nghĩa tình có từ hạt gạo Nên Vua nhường ngôi cho Hoàng tử Lang Liêu Về Đền Hùng con càng hiểu bao nhiêu Lời Bác Hồ “...phải cùng nhau giữ Nước”1 Giang sơn này một vẹn toàn Tổ quốc Bốn ngàn năm vững mãi Cột Đá Thề2 Đền Hùng là đây nơi chúng con về Có cả đàn Voi cùng chầu Đất Tổ Có Bạch Hạc - ngã ba sông sóng vỗ Tam Đảo, Ba Vì - thành lũy giữ Đất thiêng Chúng con về đây với muôn nỗi niềm riêng Đều chung tấm lòng tri ân Nguồn Cội Nghe đồng vọng hồn Tổ tiên vẫy gọi Nguyện sống hết mình, Đất Mẹ Việt Nam ơi!
Mục lục Lời bài hát Về với đền Hùng Bình luận về bài hát này Video bài hát Về với đền Hùng Ghi chú cho lời bài hát Về với đền Hùng Lời bài hát liên quan Nhạc sĩ/ Sáng tác Nguyễn Anh Trí Năm sáng tác Ngôn ngữ Việt Nam Số lượt nghe 1909 Các ca sĩ thể hiện Nam Khánh, Thích Chân Quang, Quốc Hưng, Phan Đinh Tùng, Minh Trung, Thái Quảng, Phương Thảo Lời bài hát Về với đền Hùng- Nguyễn Anh Trí Ϲhúng con cùng nhau về với Đền Hùng Ϲàng biết rõ hơn mình chung nguồn cội Ϲhung Mẹ chung Ϲha chung ngàу Lễ Hội Ɓắc Trung Ɲam chung một đồng bào Về Đền Hùng con thấm thía biết bao Với bậc sinh thành phải trọn đời hiếu thảo Thơm ngon nghĩa tình có từ hạt gạo Ɲên Vua nhường ngôi cho Hoàng tử Lang Liêu Về Đền Hùng con càng hiểu bao nhiêu Lời Ɓác Hồ phải cùng nhau giữ Ɲước Giang sơn nàу một vẹn toàn Tổ quốc Ɓốn ngàn năm vững mãi Ϲột Đá Thề Đền Hùng là đâу nơi chúng con về Ϲó cả đàn Voi cùng chầu Đất Tổ Ϲó Ɓạch Hạc ngã ba sông sóng vỗ Tam Đảo Ɓa Vì thành lũу giữ Đất thiêng Ϲhúng con về đâу với muôn nỗi niềm riêng Đều chung tấm lòng tri ân Ɲguồn Ϲội Ɲghe đồng vọng hồn Tổ tiên vẫу gọi Ɲguуện sống hết mình Đất Mẹ Việt Ɲam ơi Bình luận Bình luận Tên bạn Nội dung Ghi chú về lời bài hát Về với đền Hùng Lời bài hát Về với đền Hùng - Nguyễn Anh Trí liên tục được cập nhật đầy đủ các thông tin về nhạc sĩ, ca sĩ thể hiện, năm sáng tác, mp3 cũng như video clip youtube tại có thể liên hệ với ban quản trị website qua phần comment hoặc email để bổ sung hoặc chỉnh sửa các thiếu sót về lời bài hát hoặc các version hay ngôn ngữ khác tiếng Việt, tiếng Anh, tiềng Hàn Quốc...Từ khóa tìm kiếmLời bài hát Về với đền Hùng - Nguyễn Anh Trí, Về với đền Hùng - Nguyễn Anh Trí Lyrics, loi bai hat Ve voi den Hung - nguyen anh tri, Ve voi den Hung Lyric, Nguyễn Anh Trí, VevoidenHung
Đền Hùng từ lâu đã được biết đến là một điểm nóng về du lịch tâm linh của du lịch Phú Thọ. Đến với di tích Đền Hùng, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một quần thể di tích lịch sử nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Nơi đây là nơi các vua Hùng đã dựng ra nhà nước Văn Lang, quốc gia đầu tiên của dân tộc ta và cũng chính tại nơi đây, du khách sẽ được tìm hiểu về các vị vua Hùng, các nàng công chúa Mị Nương, Tiên Dung, về hoàng tử Lang Liêu cùng với sự tích bánh chưng bánh dày. Cùng BDATrip khám phá đền Hùng vùng đất cội nguồn dân tộc quan khu di tích Đền HùngDi tích lịch sử đền Hùng nằm tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, là nơi thờ các vị vua Hùng đã có công dựng nước, tổ tiên của dân tộc Việt Nam ta. Từ xa xưa, vùng đất này là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông như hai dãy hào bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng. Phía đông là các dãy núi cao, trùng trùng điệp điệp. Đây là mảnh đất có nhiều ao hồ, sông ngòi, đồi núi lại có những cánh đồng màu mỡ do phù sa của ba con sông bồi đắp. Được xem là nơi vừa thuận lợi cho cuộc sống định canh định cư thời xưa, vừa thuận lợi cho việc phòng thủ trong các cuộc xung đột giữa các bộ thờ vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh hay còn được gọi là núi Cả, núi Hùng hay núi Hy Cương. Trước kia, khu vực này là một cánh rừng già nhiệt đới. Ngày nay, núi Hùng vẫn giữ được nguyên dáng vẻ của một khu rừng tự nhiên với nhiều thế hệ cây tầng khác nhau bao gồm 150 loài thảo mộc thuộc 35 họ, trong đó có một số cây đại thụ lớn như thiên tuế, thông, đa, trò,…Nhìn từ xa, núi Hùng trông như đầu của một con rồng lớn hướng về phương Nam, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc, núi Pheo, núi Vặn. Phía sau núi Hùng là những quả đồi lớn san sát nối liền trông như đàn voi chầu về đất Tổ, phía trước là ngã ba Bạch Hạc, nơi hợp lưu của ba con sông sông Đà, sông Lô, sông Hồng tạo ra một vùng nước rộng lớn mênh mông. Cảnh thể vô cùng ngoạn mục và hùng vĩ, đầy khí thiêng của nơi sơn thủy hội tụ. Đền HạĐền Hạ được xây dựng từ thế kỉ 17 - 18 với kiến trúc kiểu chữ nhị = gồm Hậu cung Tiền bái. Tương truyền tại nơi đây, mẹ Âu Cơ đã sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm người con, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa của “đồng bào” cùng bọc cũng được bắt nguồn từ đây. Lạc Long Quân mang theo 50 người con xuống biển mở mang bờ cõi, Âu cơ mang 49 người con lên rừng trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, xây dựng cuộc sống mới. Người con trưởng ở lại làm vua, cha truyền con nối 18 đời đều gọi là Hùng Thiên QuangTừ xưa, ngôi chùa có tên gọi “Viễn Sơn Cổ Tự”, về sau đổi thành “Thiên Quang Thiền Tự”. Chùa được xây dựng vào thời nhà Trần, cho đến thế kỷ 15 được xây dựng lại và được đại trùng tu vào thời nhà Nguyễn. Chùa có kiến trúc kiểu chữ công I gồm có 3 tòa tiền đường, Tam bảo và Thương điện. Các tòa đều được làm theo kiểu cột trụ, kèo suốt cài nóc, quá giang gối đầu vào cột kèo. Phía ngoài có hành lang xung quanh. Mái chùa được lợp ngói mũi có đầu đao cong, bờ nóc được đắp hình lưỡi long chầu cửa chùa có cây vạn tuế gần 800 năm tuổi. Chính tại nơi đây vào ngày 19/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội đã ngồi làm việc dưới gốc cây vạn tuế TrungĐền Trung hay còn có tên gọi khác là Hùng Vương Tổ miếu, được xây dựng vào thời Lý - Trần. Đến thế kỷ 15 bị giặc Minh tàn phá, sau này được xây dựng lại. Tương truyền rằng đây là nơi vua Hùng cùng các Lạc Hầu, Lạc Tướng ngắm cảnh và bàn việc nước. Cũng chính tại nơi đây, vua Hùng thứ 6 đã truyền ngôi lại cho Lang Liêu, người con hiếu thảo sáng tạo ra món bánh chưng, bánh ThượngĐền Thượng có tên chữ là Kinh thiên lĩnh điện có nghĩa là Điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh. Đây là nơi được các vua Hùng tiến hành nghi lễ thờ trời đất, thờ Thần lúa cầu mong cho mùa màng tươi tốt. Trên đỉnh núi Hùng xưa kia có mảnh vỏ chấu khổng lồ và chiếc thuyền nan ba cắng gắn liền với truyền thuyết về hạt lúa thần, phản ánh ước mơ của người xưa về cuộc sống ấm Thượng được xây dựng quy mô vào thế kỷ 15, đến thời nhà Nguyễn, triều đình đã cử quan, cấp tiền để đại trùng tu lại. Vào ngày 18/9/1962, Bác Hồ về thăm đền Hùng đã căn dặn phải trồng cây cối, xây dựng nơi đây thành công viên lịch sử cho con cháu viếng thăm sau Hùng VươngTương truyền rằng, đây là mộ của vua Hùng thứ 6, trước khi chết có dặn dò hãy chôn trên núi Cả để có thể trông nom bờ cõi cho con cháu. Xưa kia, đây là mộ bằng đất, đến thời Tự Đức năm thứ 27 cho xây thành lăng mộ và được trùng tu lại vào thời Khải Định năm thứ đá thềTruyền thuyết kể lại rằng, Thục Phán An Dương Vương sau khi được vua Hùng nhường ngôi đã thề nguyện muôn đời bảo vệ giang sơn xã tắc mà vua Hùng trao lại và đời đời nhớ ơn, hương khói cho họ GiếngĐề Giếng có tên chữ là Ngọc Tỉnh, là nơi mà hai nàng công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con gái của vua Hùng thứ 18 thường soi gương chải tóc khi đi theo cha kinh lý qua vùng này. Hai nàng là người đã có công lao dạy dân trồng lúa, trị thủy nên được người dân lập đền được xây vào thế kỷ thứ 18, bên trên miệng giếng nên hiện nay giếng ở trong hậu cung không bao giờ cạn nước, bốn mùa nước trong Tổ Mẫu Âu CơĐền được xây dựng trên núi Vặn tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, nằm trong hệ thống “Tam sơn cấm địa” là núi Hùng, núi Vặn, núi Trọc. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ là một quần thể kiến trúc bao gồm đền chính thờ Mẫu Âu Cơ, nhà hữu vu, nhà tả vu, trụ biểu, tam quan,… được xây dựng theo phong cách truyền thống pha lẫn tính hiện đại. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ là một công trình văn hóa lớn của thời đại, nhằm mục đích quy tụ văn hóa Đền Hùng, thể hiện tình cảm của nhân dân ta đối với Tổ Mẫu Âu Cơ - người mẹ thiêng liêng của dân tộc Việt thờ Lạc Long QuânĐền quay về hướng Tây Nam, được xây dựng theo lối kiến trúc chữ đinh gồm có Cổng đền, Phương đình, Hữu vu, Tả vu, trụ biểu và đền thờ. Trong đền đặt tượng Quốc Tổ Lạc Long Quân, tượng Lạc Hầu và Lạc Tướng được đúc bằng tàng Hùng VươngBảo tàng được xây dựng vào năm 1986 do Hội kiến trúc sư Việt Nam thiết kế theo truyền thuyết bánh chưng, bánh dày với quan niệm về trời tròn, đất vuông của ông cha khi tàng hiện lưu giữ hơn 700 hiện vật, 102 bức ảnh, 5 bức tranh sơn mài, 4 bức tranh bằng gốm tráng men, 9 bức gò đồng , 5 hộp hình, một nhóm tượng đồng và rất nhiều hiện vật bổ trợ di tích lịch sử đền Hùng là điểm đến khá thú vị cho du khách gần xa. Không chỉ được tìm hiểu về nguồn cội dân tộc mà tới nơi đây, du khách còn được chiêm ngưỡng cảnh tượng núi non hùng vĩ và tận hưởng không khí thoáng đãng, trong lành. Hãy tham khảo các tour du lịch Phú Thọ hấp dẫn của chúng tôi và liên hệ ngay với BDATrip nhé. Với dịch vụ chuyên nghiệp, đội ngũ nhân viên tận tâm, chúng tôi sẽ hỗ trợ bạn đặt xe, vé máy bay thuận tiện và giá tốt nhất, hỗ trợ xin cấp Vietnam visa cho khách nước ngoài và tìm những khách sạn chất lượng tốt nhất.
Thuyết minh về Đền HùngVăn mẫu lớp 9 Thuyết minh danh lam thắng cảnh Đền Hùng được tổng hợp và sưu tầm gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham ý Thuyết minh về khu di tích lịch sử Đền Hùng1. Mở bàiGiới thiệu về đối tượng thuyết minh di tích lịch sử Đền Hùng2. Thân bài- Lịch sử hình thành Vua Hùng lựa chọn để đóng đô- Đặc điểm+ Vị trí Đền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.+ Gồm bốn đền chính đền Giếng, đền Hạ, đền Trung, đền Thượng.+ Điểm bắt đầu của Khu di tích là Đại Môn, xây năm 1917 theo kiểu vòm uốn+ Đền Hạ Xây vào thế kỷ 17-18, được tương truyền là nơi u Cơ sinh bọc trăm trứng, nở thành trăm người con.+ Chùa Thiên Quang Nằm kề bên đền Hạ, được xây vào thời Trần+ Đền Trung Tên chữ là Hùng Vương Tổ Miếu, tồn tại từ thời Lý - Trần, cấu trúc đơn giản hình chữ Nhất. Tại đây Lang Liêu đã dâng lên vua cha bánh chưng nhân dịp lễ tết.+ ền Thượng Nằm trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, thờ Thánh Gióng và vua Hùng+ Lăng vua Hùng Là mộ của Hùng Vương thứ 6. Lăng được thiết kế theo cấu trúc hình vuông với cột liền tường và hướng mặt về phía đông nam. Bên trong lăng có xây dựng mộ vua Hùng.+ ền Giếng Nằm ở phía ông Nam chân núi Nghĩa Lĩnh. Đền xây vào thế kỷ 18, tương truyền là nơi công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng thứ mười tám thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng Ý nghĩa văn hóa, tín ngưỡng của khu di tích+ Thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây của dân tộc ta từ ngàn đời xưa+ Là di sản có giá trị sâu sắc thể hiện tình cảm, sự biết ơn sâu sắc đến các thế hệ đi trước, đặc biệt là đối với vua Hùng, người đã tiên phong khai sinh nên bờ cõi nước Kết bàiKhẳng định lại giá trị lớn lao của khu di tích lịch sử Đền minh về Đền Hùng mẫu 1Đền Hùng là một quần thể kiến trúc có giá trị văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng vô cùng quan trọng của người Việt, thể hiện đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đối với vua Hùng, những người có công dựng nước và giữ nước từ thuở sơ khai của dân Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc vùng đất Phong Châu, là đế đô của nước Văn Lang từ năm trước và nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, đây là vùng đất bán sơn địa, chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, có cảnh quan đa dạng, vừa có rừng núi, đồi gò, vừa có đồng ruộng, sông ngòi, ao hồ phong Hùng được xây dựng trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh, đây được biết đến như là ngọn núi cao nhất vùng với cảnh quan trù phú, sinh vật tươi tốt tràn đầy sinh khí. Hơn nữa ngọn núi này cũng là nơi diễn ra các nghi thức tế lễ trời đất của bậc đế quân cùng quần thần với mong muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, đời sống nhân dân được ấm núi mang trên mình dáng vẻ hùng vĩ và đồ sộ như thân hình của một con rồng lớn, đầu rồng ngoảnh về nam, thân rồng uốn lượn tạo thành các dãy núi nối tiếp nhau xa tít. Và nằm san sát phía sau con rồng thiêng liên quyền lực ấy lại là hình ảnh của những đàn voi, lũ bầy tôi trung thành đang thi nhau quay mình hướng về đất tổ. Nhưng cái hùng vĩ ấy chưa dừng lại ở đó, tiếp đến ngã ba Bạch Hạc là sự kết hợp sông nước hùng vĩ. Đây là điểm hội tụ của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc, sông Hồng, sông Lô, sông Đà. Sông nước cuồn cuộn, sóng xô đá cuồn cuộn cuốn nhau chầu về chân núi Nghĩa Lĩnh. Và nếu bạn đứng từ trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thì có thể bao quát hết cảnh vật, thưởng thức hết vẻ đẹp và khí chất nơi quê cha đất tổ oai hùng bất Hùng là quần thể di tích linh thiêng thấm đượm nhiều giá trị văn hóa, lịch sử của đất nước từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Khu di tích gồm đền Hạ và chùa, đền Giếng, đền Trung, đền Thượng và lăng vua bắt đầu của khu di tích đền Hùng đó chính là Đại Môn cổng đền, đây là công trình kiến trúc được xây dựng vào năm 1917 theo kiểu vòm uốn với chiều cao 8,5 mét, có hai tầng mái và được lợp giả ngói ống. Bên trên bốn góc tầng mái được trang trí hình rồng và hai con nghê đắp nổi. Nếu bên trên cổng là hình ảnh loài rồng đầy thiêng liêng và sức mạnh thì bên dưới cổng, trên tường lại được đắp nổi phù điêu hai võ sĩ trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Một người lẫm liệt tay cầm giáo, một người cầm rìu chiến. Cả hai đều khoác lên mình bộ giáp kiêu sa ẩn chứa vô vàn sức mạnh. Chưa hết choáng ngợp với cảnh sông nước Nghĩa Lĩnh, vậy mà đến cổng đền ta lại được một phen mãn nhãn đến thần hồn điên đảo bởi điểm xuất phát đầu tiên của Đền điểm tiếp theo để tiếp tục cuộc hành trình kỳ thú này là đền Hạ và Thiên Quang Tự. Để đến đây du khách sẽ phải trải qua một hành trình gian nan gồm 225 bậc thang bằng gạch. Đền Hạ đã tồn tại từ thế kỉ 17- 18 với cấu trúc đơn sơ hình chữ Nhị có hai gian. Gian thứ nhất có tên gọi là Tiền bái, gian thứ hai là Hậu cung. Trước của đền Hạ là cây thiên tuế, đây cũng là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già dân tộc đã cất lên lời dặn dò bất hủ về sự nghiệp bảo vệ dân tộc “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.Tương truyền, xưa kia Lạc Long Quân và mẹ u Cơ sinh được 100 người con, 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi khai sơn phá thạch. Trong 50 người con theo mẹ thì người con trưởng lên nối ngôi, lấy niên hiệu Hùng Vương thứ nhất, đặt tên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền 18 đời trong hơn năm từ năm 2879 đến năm 258 trước Công nguyên.Nằm kề bên đền Hạ là Chùa Thiên Quang, được xây vào thời Trần. Phía trước chùa có cây vạn tuế gần tám trăm năm tuổi, xung quanh chùa có hành lang bao bọc, mái lợp ngói mũi, đầu đao cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Trước sân chùa là hai tháp sư hình trụ 4 tầng và một gác chuông có tuổi đời vài trăm năm. Trong chùa có trên 30 pho tượng Tam Thế, A Di Đà, Quan m Nam Hải, Quan m Tống Từ, Đức Thánh Hiền, Hộ Pháp,. . . được bài trí trang nghiêm. Kiến trúc hiện nay của chùa theo kiểu chữ Công, gồm Tiền đường 5 gian, Tam bảo 3 gian, và Thượng điện 3 đền Hạ leo thêm 168 bậc nữa là có thể đến đền Trung, đây là nơi vua quan ngự bàn việc dân việc nước và thưởng thức vẻ đẹp đất trời. Đền Hạ có tên chữ là Hùng Vương Tổ Miếu, đây là ngôi đền cổ tồn tại từ thời Lý – Trần với cấu trúc đơn giản hình chữ Nhất. Tại đây Lang Liêu đã dâng lên vua cha bánh chưng nhân dịp lễ tết và không phụ với ý trời, công sức của chàng đã được đền đáp bằng việc truyền ngôi của vua một hành trình gian nan cuối cùng du khách cũng đặt chân lên đỉnh Nghĩa Lĩnh, và tại đây có đền Thượng với tên gọi là “Kính Thiên lĩnh điện”. Đây là nơi thờ Thánh Gióng và vua Hùng. Đền Thượng tọa lạc ở trung tâm trời đất và cũng là trung tâm của khu di tích đền Hùng. Ngôi đền có sân rộng và được tôn tạo lại với kiến trúc cổ để du khách tìm về hành lễ nhưng không được đặt chân vào bên trong các gian thờ. Người ta vẫn thường truyền nhau rằng ngôi đền được xây dựng sau khi Thánh Gióng lập nên đại công, đánh đuổi giặc n khỏi quê cha đất tổ. Và sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc n bay lên trời thì vua Hùng đã đem ngài hóa ở ngôi đền bên cạnh, đó chính là Lăng vua ở phía Đông đền Thượng, đây là mộ Hùng Vương thứ 6 với cấu trúc hình vuông có cột liền tường. Trong lăng là khu mộ vua Hùng với kích thước dài 1,3, rộng 1,8, cao đến tiếp theo và cũng là điểm cuối của chuỗi di tích đó chính là đền Giếng, chặng cuối này nằm ở ông Nam chân núi Nghĩa Lĩnh. Đền xây vào thế kỷ 18, theo kiểu kiến trúc chữ Công gồm gian Tiền bái, ống muống, và Hậu cung. Đền xây vào thế kỷ 18, đây là ngôi đền mà hai cô con gái vua là Tiên Dung và Ngọc Hoa đã từng ngang qua, tại đây họ thường soi gương và chải tóc. Bên trong đền có giếng Ngọc nước trong veo quanh trong những địa điểm đáng để đặt chân đến của khu dích tích đó là Bảo tàng Hùng Vương, nơi đây được thiết kế mô phỏng hình ảnh bánh chưng bánh dày và trưng bày nhiều hiện vật từ thời vua Hùng, bảo tàng đã giới thiệu khái quát sự nghiệp dựng nước Văn Lang của các vua Hùng thông qua các nội dung trưng bày với các chủ đề khác nhau. Hằng năm cứ vào đúng ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch thì khu di tích Đền Hùng lại long trọng tổ chức giỗ tổ Hùng Vương với nhiều hoạt động, sự kiện long trọng nhằm bày tỏ lòng biết ơn, gợi nhớ lại công lao của các vị Vua Hùng đã có công lớn trong việc xây dựng nền móng nước nhà. Cùng với thời gian, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã tích hợp nhiều giá trị văn hóa quý báu của dân tộc, thể hiện ý thức nhớ về cội nguồn dân tộc “Ăn quả nhớ người trồng cây”; “Uống nước nhớ nguồn”; sự đoàn kết sâu rộng của cộng đồng dân tộc tạo nên tính cộng đồng sâu sắc. Thờ cúng Hùng Vương đã trở thành truyền thống quý báu không chỉ ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài, nơi có cộng đồng người Việt sinh sống. Điều đó đã tạo nên triết lý nhân văn sâu sắc, động lực tinh thần của dân tộc Việt Nam, hình thành nên nét đặc sắc của văn hóa nhân loại. Thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập mối liên hệ dòng tộc giữa các Vua Hùng với mọi thế hệ trong cộng đồng người Việt từ quá khứ, hiện tại đến mai sau. Đó là sợi dây liên kết các truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ thời đại sơ khai của các vua Hùng cho đến thời đại văn minh của Hồ Chí Minh, thể hiện lối sống trọng tình nghĩa, thủy chung, sự biết ơn, tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau đậm đà tính dân tổ chức Giỗ Tổ Hùng vương được Nhà nước, chính quyền địa phương tổ chức trang trọng, trong đó nghi lễ quan trọng nhất là Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng tại Đền Thượng, thể hiện sự biết ơn đối với công lao dựng nước của các vua Hùng. Bên cạnh đó còn có lễ hội đền Hùng với các trò chơi dân gian và các cuộc thi đậm chất truyền thông như hát Xoan, hát Ghẹo, Hội trại văn năm 1962 nhà nước ta đã quyết định công nhận Đền Hùng là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia, đây cũng là một trong 10 di tích được xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa đặc biệt cấp Quốc gia” đợt đầu tiên vào năm Hùng, khu di tích gắn liền với chiều dài lịch sử của dân tộc và ẩn chứa những giá trị về kiến trúc, văn hóa sâu sắc. Chúng ta cần tự hào và ra sức bảo vệ, phát triển và truyền tải niềm tự hào này đến với bạn bè quốc minh về Đền Hùng mẫu 2Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, mỗi địa danh trên dải đất hình chữ S thân yêu của chúng ta đều in đậm dấu tích của một thời hào hùng trong lịch sử dân tộc. Ngược dòng thời gian, trở về với thời đại dựng nước của các vua Hùng, chắc hẳn mỗi chúng ta sẽ mãi khắc ghi công lao to lớn ấy. Và Đền Hùng chính là địa danh tiêu biểu, là minh chứng rõ ràng và tiêu biểu nhất cho lòng biết ơn của nhân dân ta đối với các vua Hùng từ ngàn đời chúng ta đã biết, Đền Hùng là Khu di tích lịch sử, là một trong số những địa điểm du lịch nổi tiếng bậc nhất ở nước ta. Đền Hùng tọa lạc ở núi Nghĩa Lĩnh, xưa nằm trọn trong đất Phong Châu – kinh đô của nước Văn Lang xưa và ngày nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì của tỉnh Phú Thọ. Quần thể di tích Đền Hùng nằm cách trung tâm của thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ khoảng 10 ki-lô-mét. Được xây dựng từ rất sớm, trải qua thời gian, Khu di tích Lịch sử Đền Hùng ngày càng được chú trọng xây dựng, phát triển và đưa vào quy hoạch, trở thành một trong số những công trình di tích lịch sử tiêu biểu của cả nước. Năm 1962, lần đầu tiên, Đền Hùng được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng là Khu di tích đặc biệt cấp quốc gia. Năm 1967, Chính phủ đã ra quyết định khoanh vùng để xây dựng khu rừng cấm Đền Hùng. Năm 1994, dự án quy hoạch tổng thể Khu di tích lịch sử Đền Hùng lần thứ nhất được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi để Đền Hùng ngày càng được đầu tư, xây dựng và phát triển. Kể từ đó, Khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày càng phát triển lớn mạnh và đến năm 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đã ra quyết định nâng cấp Khu di tích này từ trực thuộc Sở văn hóa thông tin Phú Thọ thành Khu di tích lịch sử Đền Hùng trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ. Đặc biệt hơn thế nữa, vào năm 2012, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Khu di tích Đền Hùng, Phú Thọ chính thức được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Như vậy, có thể thấy, trải qua quá trình xây dựng và phát triển, khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày càng phát triển và nhận được sự quan tâm lớn lao của cả cộng đồng, xã thăm Khu di tích lịch sử Đền Hùng chắc hẳn chúng ta sẽ có nhiều khám phá, phát hiện độc đáo và thú vị về kiến trúc của công trình này. Quần thể di tích Đền Hùng nằm trọn từ chân núi đến đỉnh núi của ngọn núi Nghĩa Lĩnh với độ cao hơn 175 mét, gồm có bốn đền chính là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, đền Giếng và khu lăng mộ của vua Hùng. Điểm đầu tiên khi đến với Đền Hùng đó chính là Đại Môn hay còn gọi là cổng đền. Đại Môn được xây dựng vào năm 1917, cao 8,5 mét với kiểu vòm uốn, gồm hai tầng mái. Ở bốn góc tầng mái, bên trên được trang trí hình rồng và hình hai con nghê đắp nổi. Cùng với đó, nếu bên trái của cổng đền là hình rồng thì phía bên dưới cổng, trên bức tường đó chính là bức phù điêu hai võ sĩ đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Qua Đại Môn, đi khoảng 225 bậc thang bằng gạch là đền Hạ, nhà bia và chùa Thiên Quang. Đền Hạ được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII – XVIII với lối kiến trúc chữ nhị, gồm Tiền bái và Hậu cung. Tương truyền, đây chính là nơi Âu Cơ đã sinh ra bọc trăm trứng và về sau nở ra 100 người con – nguồn gốc của những người con đất Việt. Cạnh bên đền Hạ chính là nhà bia với kiến trúc lục giác có sáu mái. Nhà bia chính là nơi đặt câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi về thăm Đền Hùng vào năm 1954 – “Các vua Hùng đã có công dựng nước bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Cạnh bên của đền Hạ còn có chùa Thiên Quang hay còn được gọi là Thiên Quang thiền tự, được xây dựng vào thời nhà đền Hạ, đi thêm 168 bậc nữa sẽ đến đền Trung, còn có tên là Hùng Vương Tổ Miếu. Được xây dựng vào thời Lí – Trần, đền Trung là nơi vua Hùng cùng các quan họp bàn việc nước và ngắm cảnh núi non. Đồng thời, tương truyền, đây cũng là nơi Lang Liêu đã dâng bánh cho vua cha và được vua cha truyền lại ngôi đền Trung chính là đền Thượng. Đền Thượng còn được gọi với cái tên chữ là Kính thiên lĩnh diện, được xây dựng vào khoảng thế kỉ XV với quy mô lớn. Theo tương truyền, đây chính là nơi mà Vua Hùng thường lên để tiến hành các nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp như thờ thần lúa, thờ trời đất,… với mong muốn sẽ có một năm mưa thuận gió hòa để mùa màng tươi tốt và cuộc sống thêm phần hưng thịnh, ấm no. Thêm vào đó, sau khi ghé thăm đền Thượng, chắc hẳn không thể nào không ghé tới lăng của các vị vua Hùng. Theo những truyền thuyết hiện còn lưu lại, đây chính là lăng của vị vua Hùng thứ 6, lăng nằm ở phía đông của đền Thượng, mặt lăng quay theo hướng đông vào đó, nhắc tới Đền Hùng không thể nào không nhắc tới quần thể đền Giếng. Đền Giếng được xây dựng vào thế kỉ XVIII, đây là nơi hai cô công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa thường soi gương, vấn tóc khi theo vua cha vua Hùng thứ mười tám đi qua nơi này. Ngày nay, Khu di tích lịch sử Đền Hùng vừa xây dựng thêm đền Mẫu Âu Cơ và đền thờ Lạc Long vậy, có thể thấy, Khu di tích lịch sử Đền Hùng gồm nhiều công trình kiến trúc khác nhau, được xây dựng từ lâu đời. Đặc biệt, khi nhắc tới Đền Hùng không thể nào không nhắc tới Giỗ tổ Hùng vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hằng năm. Giỗ tổ Hùng vương bao gồm phần lễ và phần hội, và thường được diễn ra trước ngày giỗ chính một tuần lễ. Phần lễ bao gồm lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương, còn phần hội bao gồm nhiều trò chơi dân gian, những cuộc thi hát xoan, kéo vật, kéo co,… Giỗ tổ Hùng Vương luôn là dịp lễ thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước về tham dự, là một sự kiện quan trọng trong năm của những người con đất Việt, bởi dân gian ta từ xưa đã có câu caDù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ tổ mồng 10 tháng 3Ca daoĐền Hùng là một công trình kiến trúc, một di tích lịch sử nổi tiếng của nước ta và có ý nghĩa to lớn trong đời sống của con người Việt Nam từ ngàn đời nay. Trước hết, Đền Hùng nói chung, lễ hội Giỗ Tổ Hùng vương mỗi năm là minh chứng tiêu biểu cho truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Thêm vào đó, Đền Hùng còn là di sản văn hóa, có giá trị sâu sắc, thể hiện lòng biết ơn của sâu sắc đối với các thế hệ đi trước, đặc biệt là các vua Hùng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Và có lẽ, bởi ý nghĩa to lớn ấy, Đền Hùng đã và đang trở thành nguồn cảm hứng cho thi ca, hội họa và là điểm dừng chân hấp dẫn, thú vị cho du khách trong và ngoài lại, trải qua quá trình xây dựng, hình thành và phát triển, cho đến ngày hôm nay, Đền Hùng vẫn luôn là một khu di tích lịch sử nổi tiếng, giàu ý nghĩa và là điểm đến lí tưởng cho du khách thập phương. Nơi đây chính là minh chứng tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn, cho những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời minh về khu di tích lịch sử Đền Hùng mẫu 3Đền Hùng là một quần thể di tích lịch sử có giá trị văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng vô cùng quan trọng của người Việt Nam ta. Nó không chỉ thể hiện đạo lý truyền thống "uống nước nhớ nguồn" đối với vua Hùng, những người có công dựng nước và giữ nước từ thuở sơ khai của dân tộc mà còn là nơi giúp chúng ta thể hiện lòng biết ơn tới những vị vua có công dựng Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, là đế đô của nước Văn Lang từ năm trước và nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, đây là vùng đất bán sơn địa, chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, có cảnh quan đa dạng, vừa có rừng núi, đồi gò, vừa có đồng ruộng, sông ngòi, ao hồ phong Nghĩa Lĩnh được biết đến như là ngọn núi cao nhất vùng cùng cảnh quan trù phú, động thực vật đa dạng, tươi tốt tràn đầy sinh khí. Hơn nữa ngọn núi này cũng là nơi diễn ra các nghi thức tế lễ trời đất của vua chúa cùng quần thần với mong muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, đời sống nhân dân được ấm từ xa, ngọn núi mang hình dáng vẻ hùng vĩ và đồ sộ như một con rồng lớn, đầu rồng ngoảnh về nam, thân rồng uốn lượn tạo thành các dãy núi nối tiếp nhau xa tít. Nhưng cái hùng vĩ ấy càng lớn hơn khi cạnh đó là ngã ba Bạch Hạc là sự kết hợp sông nước hùng vĩ. Đây là điểm hội tụ của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc sông Hồng, sông Lô, sông Đà. Sông nước cuồn cuộn, sóng xô đá cuồn cuộn cuốn nhau chầu về chân núi Nghĩa Lĩnh. Và khi bạn đứng trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thì có thể bao quát hết cảnh vật, thưởng thức hết vẻ đẹp và khí chất nơi quê cha đất tổ oai hùng bất Hùng là quần thể di tích linh thiêng, khu di tích gồm đền Hạ và chùa, đền Giếng, đền Trung, đền Thượng và lăng vua bắt đầu của khu di tích Đền Hùng đó chính là Đại Môn cổng đền, đây là công trình kiến trúc được xây dựng vào năm 1917 theo kiểu vòm uốn với chiều cao 8,5 mét, có hai tầng mái và được lợp giả ngói ống. Bên trên bốn góc tầng mái được trang trí hình rồng và hai con nghê đắp nổi. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa tầng một có đề bức đại tự “Cao sơn cảnh hành” lên núi cao nhìn xa rộng. Còn có người dịch là “Cao sơn cảnh hạnh” Đức lớn như núi cao. Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ truyền nơi đây, Mẹ u Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, nguồn gốc “đồng bào” cùng bọc được bắt nguồn từ đây. Dấu tích giếng “Mắt Rồng” là nơi mẹ u Cơ ấp trứng nay vẫn còn ở phía sau Hạ được xây dựng lại trên nền đất cũ vào thế kỷ XVII - XVIII. Kiến trúc kiểu chữ “nhị” gồm hai toà tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5m. Kiến trúc đơn sơ kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước. Đốc xây liền tường với đốc Hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên voi, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không trang trí mỹ thuật. Mái lợp ngói mũi, địa phương gọi là ngói mũi chân Đền Hạ là Nhà bia với kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia trước đây đặt tấm bia ghi lại việc tu sửa đường lên núi Hùng, hiện nay đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945“Các Vua Hùng đã có công dựng nướcBác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”Gần Đền Hạ có một ngôi chùa, xưa có tên là Sơn cảnh thừa long tự, sau đổi là Thiên quang thiền tự. Chùa được xây theo kiểu nội công ngoại quốc, gồm các nhà tiền đường 5 gian, thiêu hương 2 gian, tam bảo 3 gian ở phía trước, dãy hành lang, nhà Tổ ở phía sau. Các toà được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột xây, kèo suốt. Mái chùa được lập ngói mũi, đầu đao cong. Bờ nóc tiền đường đắp lưỡng long chầu nguyệt. Chùa thờ Phật theo phái Đại cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Trước sân chùa có 2 tháp sư hình trụ 4 tầng. Trên nóc đắp hình hoa sen. Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong tháp có bát nhang và tấm bia đá khắc tên các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại còn có một gác chuông được xây dựng vào thế kỷ XVII, gồm 3 gian, 2 tầng mái, 4 vì kèo cột kiểu chồng giường kết hợp với bẩy lẻ. Các bẩy lẻ hầu như để trơn không chạm trổ gì. Trên gác chuông có treo quả chuông, không ghi niên đại đúc chuông mà chỉ ghi “Đại Việt quốc, Sơn Tây dạo Lâm Thao phủ, Sơn Vi huyện, Hy Cương xã, Cổ Tích thôn cư phụng”. Qua đó có thể đoán quả chuông được đúc thời Hậu truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu - người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh được xây theo kiểu hình chữ nhất, có 3 gian quay về hướng nam, dài 7,2m, rộng 3,7m. Mái hiên cao 1,8m, không có cột kèo, cầu quá giang gối vào tường, bít đốc tường hậu, phía trước mở 3 Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để tiến hành nghi lễ tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh giặc n. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ cúng. Đền Thượng có tên chữ là “Kính thiên lĩnh điện” Điện cầu trời còn có tên là “Cửu trùng tiên điện” Điện giữa chín tầng mây. Trong Đền Thượng có bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ” Tổ khai sáng nước Việt Nam. Đền được làm kiểu chữ Vương, kiến trúc đơn giản, kèo cầu, không có chạm trổ, được xây dựng qua bốn cấp khác nhau gồm nhà chuông trống cấp I, đại bái cấp II, tiền tế cấp III và hậu cung cấp IV.Bên phía tay trái Đền có một cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại và đời đời hương khói trông nom miếu vũ họ Vương. Cột đá cao 1,3m, rộng 0,3m, hình vuông. Đến năm 1968, Ty Văn hoá Vĩnh Phú tôn tạo lên bệ như hiện Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa là mộ đất, thời Tự Đức năm thứ 27 1870 cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7 1922 trùng tu lại. Lăng hình vuông, cột liền tường, có đao cong 8 góc, tạo thành 2 tầng mái. Tầng dưới 4 góc đắp 4 con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp hình “quả ngọc” theo tích “cửu long tranh châu”. Mái đắp ngói ống, cổ diêm, 3 phía đều đắp mặt hổ phù. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, 2 bên cửa đều đắp kỳ lân, xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bằng đá. Trong lăng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài 1,3m, rộng 1,8m, cao 1,0m. Mộ có mái mui luyện. Phía trong lăng có bia đá ghi Biểu chính lăng chính. Phía trên ba mặt lăng đều có đề Hùng Vương lăng Lăng Hùng Vương.Đền Giếng tên chữ là Ngọc Tỉnh, tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng thứ 18 thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời. Đền được xây dựng vào thế kỷ XVIII, theo hướng Đông Nam, kiến trúc kiểu chữ công, gồm nhà tiền bái 3 gian, hậu cung 3 gian, 1 chuôi vồ và 2 nhà oản 4 gian, có phương đình nối tiền bái với hậu Đền Giếng được xây vào thế kỷ XVIII, kiểu dáng gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp hơn. Cổng xây theo kiểu kiến trúc 2 tầng 8 mái. Tầng dưới, giữa có một cửa xây kiểu vòm, hai bên có hai cột trụ trên lắp nghê chầu. Tầng trên giữa cổng có bức đại tự đề “Trung sơn tiểu thất” ngôi miếu nhỏ trong núi. Hai bên có đề câu đối và tượng hai võ sĩ. Mặt sau cổng đắp hổ, mỗi con một theo là đền Tổ mẫu Âu Cơ được bắt đầu xây dựng vào năm 2001 và khánh thành tháng 12/2004. Đền được xây dựng trên núi ốc Sơn núi Vặn theo kiến trúc truyền thống với cột, xà, hoành, dui bằng gỗ lim, mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch bát. Đền chính có diện tích 137m2, làm theo kiểu chữ Đinh. Bên cạnh đền chính có nhà Tả vũ, nhà Hữu vũ, nhà Bia, Trụ biểu, Tứ trụ, cổng Tam quan, nhà tiếp khách và hoa viên. Trong đền có tượng thờ Mẹ Âu Cơ và hai Lạc hầu, Lạc tướng. Đường đi lên đền được xây bằng 553 bậc đá Hải cùng, một trong những địa điểm đáng để đặt chân đến của khu dích tích đó là Bảo tàng Hùng Vương, nơi đây được thiết kế mô phỏng hình ảnh bánh chưng bánh dày và trưng bày nhiều hiện vật từ thời vua Hùng, bảo tàng đã giới thiệu khái quát sự nghiệp dựng nước Văn Lang của các vua Hùng thông qua các nội dung trưng bày với các chủ đề khác nhau. Hằng năm cứ vào đúng ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch thì khu di tích Đền Hùng lại long trọng tổ chức giỗ tổ Hùng Vương với nhiều hoạt động, sự kiện long trọng nhằm bày tỏ lòng biết ơn, gợi nhớ lại công lao của các vị Vua Hùng đã có công lớn trong việc xây dựng nền móng nước nhà. Cùng với thời gian, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã tích hợp nhiều giá trị văn hóa quý báu của dân tộc, thể hiện ý thức nhớ về cội nguồn dân tộc "Ăn quả nhớ người trồng cây"; "Uống nước nhớ nguồn"; sự đoàn kết sâu rộng của cộng đồng dân tộc tạo nên tính cộng đồng sâu sắc. Thờ cúng Hùng Vương đã trở thành truyền thống quý báu không chỉ ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài, nơi có cộng đồng người Việt sinh sống. Điều đó đã tạo nên triết lý nhân văn sâu sắc, động lực tinh thần của dân tộc Việt Nam, hình thành nên nét đặc sắc của văn hóa nhân loại. Thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập mối liên hệ dòng tộc giữa các Vua Hùng với mọi thế hệ trong cộng đồng người Việt từ quá khứ, hiện tại đến mai sau. Đó là sợi dây liên kết các truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ thời đại sơ khai của các vua Hùng cho đến thời đại văn minh của Hồ Chí Minh, thể hiện lối sống trọng tình nghĩa, thủy chung, sự biết ơn, tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau đậm đà tính dân tổ chức Giỗ Tổ Hùng vương được Nhà nước, chính quyền địa phương tổ chức trang trọng, trong đó nghi lễ quan trọng nhất là Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng tại Đền Thượng, thể hiện sự biết ơn đối với công lao dựng nước của các vua Hùng. Bên cạnh đó còn có lễ hội Đền Hùng với các trò chơi dân gian và các cuộc thi đậm chất truyền thông như hát Xoan, hát Ghẹo, Hội trại văn năm 1962 nhà nước ta đã quyết định công nhận Đền Hùng là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia, đây cũng là một trong 10 di tích được xếp hạng "Di tích lịch sử văn hóa đặc biệt cấp Quốc gia" đợt đầu tiên vào năm Hùng, khu di tích gắn liền với chiều dài lịch sử của dân tộc và ẩn chứa những giá trị về kiến trúc, văn hóa sâu sắc. Chúng ta cần tự hào và ra sức bảo vệ, phát triển và truyền tải niềm tự hào này đến với bạn bè quốc minh danh lam thắng cảnh Đền Hùng mẫu 4Khu Di tích lịch sử Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; là nơi thờ các vua Hùng có công dựng nước, Tổ Tiên của dân tộc Việt Nam. Ngày xa xưa vùng đất này là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông giống như hai dãy hào thiên nhiên khổng lồ bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng trông xa giống như đầu của một con rồng lớn hướng về Nam, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo. Phía sau núi Hùng có những quả đồi lớn san sát nối liền dài tới 10km giống như đàn voi chầu về Đất Tổ, phía trước là ngã ba Bạch Hạc với sự hợp lưu của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc sông Hồng, sông Lô, sông Đà tạo ra một vùng nước lớn mênh mông, từ đó có những quả đồi thấp lô nhô giống như một đàn rùa nước bò lên chầu về Nghĩa Lĩnh. Phía Đông xa mờ là dãy Tam Đảo trùng điệp núi mẹ, xa về phía nam là dãy Ba Vì cao ngất núi cha tụ núi Hùng còn có những quả đồi như phượng cặp như Tiên Kiên, hổ phục Khang Phụ – Chu Hoá. Cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ tụ hội. Đứng trên đỉnh cao Nghĩa Lĩnh ta có thể bao quát toàn bộ một vùng rộng lớn với cảnh đẹp của sơn thuỷ hữu tình. Tương truyền vua Hùng đã đi khắp mọi miền, về đây chọn làm đất đóng thể Khu di tích lịch sử Đền Hùng gồm đền Hạ và chùa Thiên Quang, đền Trung, đền Thượng và Lăng Vua Hùng, đền Giếng, đền Tổ Mẫu u Cơ, đền Quốc Tổ Lạc Long Quân cùng với đó là các công trình phụ trợ nhằm phục vụ nhu cầu tâm linh của đồng bào cả nước về Giỗ Tổ Hùng Vương hàng nămĐầu tiên là đền Hạ được xây dựng vào thế kỷ XVII – XVIII. Kiến trúc kiểu chữ nhị = gồm Tiền bái và Hậu cung. Kiến trúc đền Hạ đơn sơ, kèo cầu suốt, quá giang đóng trụ, mái lợp ngói mũi. Tương truyền rằng nơi đây, mẹ u Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành trăm người con trai, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” cùng bọc được bắt nguồn từ đây.. Khi các con khôn lớn cha Lạc Long Quân mang theo 50 người con về vùng biển quai đê lấn biển, mở mang bờ cõi. Mẹ u Cơ mang theo 49 người con ngược lên vùng núi, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, xây dựng cuộc sống. Người con trưởng ở lại làm Vua, cha truyền con nối 18 đời đều gọi là Hùng theo là chùa Thiên Quang, chùa xưa có tên gọi là " Viễn Sơn Cổ Tự" sau đổi thành "Thiên Quang Thiền Tự ". Chùa được xây dựng vào thời Trần đến thế kỷ XV xây dựng lại, thời Nguyễn chùa được đại trùng nay chùa có kiến trúc kiểu chữ công I gồm ba toà tiền đường 5 gian Tam bảo 3 gian và Thượng điện 3 gian các toà được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột, kèo suốt cài nóc. Phía ngoài có hành lang xây xung quanh. Mái chùa lợp ngói mũi có đầu đao cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa. Trước cửa chùa có cây Vạn tuế có tuổi gần tám trăm năm. Nơi đây ngày 19/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội, Bác đã ngồi làm việc bên gốc cây Vạn Trung có tên là Hùng Vương Tổ miếu được xây dựng vào thời Lý – Trần. Đến thế kỷ XV bị giặc Minh tàn phá, sau này được xây dựng lại, kiến trúc hiện nay kiểu chữ nhất - 3 gian, kiến trúc đơn sơ không có cột, kèo cầu quá giáng cột trốn gối vào tường, mái lợp ngói truyền là nơi các Vua Hùng cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng ngắm cảnh và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu người con hiếu thảo sáng tạo ra bánh chưng, bánh Thượng có tên chữ là Kính thiên lĩnh điện, đến thế kỷ XV đền được xây dựng quy mô, vào thời Nguyễn triều đình cấp tiền, cử quan về giám sát việc đại trùng tu. Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ Vương, được xây dựng 4 cấp Nhà chuông trống, Đại bái, Tiền tế và Hậu 18/9/1962 Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đền Hùng, người đã nghỉ trưa ở cửa ngách Đông Nam đền Thượng trước khi về Bác căn dặn phải trồng cây cối. Xây dựng Đền Hùng thành công viên lịch sử cho con cháu sau này thăm lăng Hùng Vương, tương truyền là mộ vua Hùng thứ 6, trước khi chết có dặn hãy chôn ta trên núi Cả để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu. Xưa là mộ đất, đến thời Tự Đức năm thứ 27 1870 cho xây Lăng Mộ, thời Khải Định năm thứ 2 1922 được đại trùng tu như ngày Giếng có tên chữ là Ngọc Tỉnh. Tương truyền là nơi hai nàng công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái Vua Hùng thứ 18 thường soi gương chải tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai nàng là người có công dạy dân trồng lúa, trị thuỷ nên nhân dân lập đền thờ. Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 18, đền được xây dựng lên trên giếng nên hiện nay giếng ở bên trong hậu cung của đền bốn mùa nước trong mát, không bao giờ cạn. Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ công I gồm Tiền bái, ống muống, Hậu cung, hậu cung được xây dựng kiểu chuỗi vồ. Mái đền lợp ngói mũi, bờ nóc trang trí lưỡng long chầu Tổ Mẫu u Cơ được xây dựng trên đỉnh núi Vặn Tên mỹ là tự là núi Ốc Sơn, thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, có độ cao 170,2m so với mặt biển, nằm trong hệ thống “Tam sơn cấm địa” là núi Hùng, núi Trọc, núi Vặn. Đền được xây dựng nhằm thể hiện tình cảm của nhân dân ta đối với Tổ Mẫu u Cơ người mẹ thiêng liêng huyền thoại của dân tộc Việt đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân được xây dựng dưới chân núi Sim vào năm 2006. Trong đền đặt tượng Quốc Tổ Lạc Long Quân, tượng Lạc Hầu, Lạc Tướng được đúc bằng đồng. Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân tạo thành một quần thể kiến trúc cảnh quan, góp phần bảo tồn, tái tạo hình ảnh lịch sử, đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong việc thờ tự thuỷ tổ dân tộc. Nhằm giáo dục các giá trị truyền thống dân lẽ đến thời Hậu Lê thế kỷ XV, khu di tích lịch sử Đền Hùng mới được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như như hiện nay. Và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch, với câu ca đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi người dân đất Việt“Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng baKhắp miền truyền mãi câu caNước non vẫn nước non nhà ngàn năm”.Thuyết minh danh lam thắng cảnh Đền Hùng mẫu 5Trên đất nước Việt Nam yêu dấu có rất nhiều cảnh đẹp. Nhưng cảnh đẹp mà tôi tự hào nhất là Đền Hùng – nơi thờ các Vua Hùng thời xưa đã có công dựng nước. Đền Hùng là một thắng cảnh đẹp, một di tích lịch sử có ý nghĩa nhất đôi với người Việt Nam vì đó là nơi thờ cúng, tưởng niệm của vua Hùng, tổ tiên chung của cả dân Hùng nằm ở phía tây bắc Hà Nội, cách Thủ đô chưa đầy 90km. Đền Hùng được xây dựng trên núi Hùng hay còn được gọi là núi Cả, núi Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hi Cương, Hi Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiêu Sơn,…. Núi có độ cao 175m so với mặt nước biển. Tục truyền rằng, núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình rồng uốn khúc thành núi Vặn, núi Trọc, núi Pheo. Núi Vặn cao 170m, xấp xỉ núi Hùng. Núi Trọc nằm giữa núi Hùng và núi Vặn, cao 145m. Theo truyền thuyết, ba đỉnh núi này là ba đỉnh “Tam sơn cấm địa” được dân gian thờ từ rất lâu cảnh nơi đây mới hùng vĩ làm sao! Ở đó núi non trùng điệp, rừng cây bạt ngàn xanh tốt. Vào những ngày đẹp trời, ta có thể nhìn thây dòng sống Lô hiền hoà, trong vắt, những xóm làng ẩn hiện trong vườn cây trái như một bức tranh đầy màu sắc. Từ núi Nghĩa Lĩnh có thế’ quan sát được cả một vùng rất rộng của trung tâm Bắc Bộ với ngã ba Hạ, nơi sông Lô đổ nước vào sống Hồng, với các dãy núi Tam Đảo, Ba Vì và các dãy đồi lượn sóng xen kẽ giữa những cánh đồng tốt tươi, những vùng quê trù phú của vùng trung bộ khu di tích gồm 4 đền, 1 chùa và một lăng hài hòa trong phong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất đẹp mắt. Cao nhất là Đền Thượng, thấp nhất là Đền Giếng. Các Đền được xây dựng theo một kiến trúc cổ kính. Sau khi qua cổng chính của khu di tích, qua 225 bậc đá, là lên đến đền Hạ. Ở khu vực Đền Hạ có chùa Thiên Quang và cây Thiên Tuế 700 tuổi; gần đó có đền Ngọc và giếng Ngọc. Từ Đền Hạ theo 168 bậc đá nữa là Đền Trung và lên tiếp 102 bận nữa thì lên Đền Thượng và có lăng vua Hùng, tượng trưng cho mộ đền được xây theo kiểu vòm cuốn. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, bốn góc tầng mái trang trí rồng, đắp nổi hai con nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ; giữa tầng một có đề bức đại tự “Cao sơn cảnh hành” lên núi cao nhìn xa rộng. Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ cổng chính là Đền Hạ. Tương truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, nguồn gốc “đồng bào” cùng bọc được bắt nguồn từ đây. Ngay chân Đền Hạ là nhà bia, trên đỉnh có đắp hình, nậm rượu. Nơi đây đặt bia đá ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945 “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.Gần Đền Hạ có ngôi chùa Thiên Quang thiền tự. Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Bác Hồ ngồi nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ. Chùa có một gác chuông được xây dựng vào thế kỉ XVII. Tiếp đến là Đền Trung. Tương truyền đây là nơi các vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Đây cũng là nơi vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu – người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để cử hành những buổi lễ thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ cúng. Tiếp đến là Lăng Hùng Vương, tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng hình vuông, tầng dưới bốn góc đắp bốn con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp hình “quả ngọc”. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, hai bén cửa đều đắp kì lân, xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bàng đá. Trong lãng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài, có mái mui Đền Thượng, đi tham quan một đoạn nữa là đến Đền Giếng tên chữ là Ngọc Tỉnh, tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng thứ 18 thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lí qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên dược nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời, cổng Đền Giếng có kiểu dáng gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp Tổ Mẫu Âu Cơ được xây dựng trên núi Ốc Sơn núi Vặn. Trong đền có tượng thờ Mẹ Âu Cơ và hai Lạc hầu, Lạc tướng. Đường đi lên đền được xây bằng 553 bậc đá Hải dưới chân núi là Bảo tàng Hùng Vương. Trong Bảo tàng có nhiều hiện vật, tranh ảnh, tượng lớn khắc hoạ chủ đề “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử”. Vào những ngày giỗ Tổ Hùng Vương, cờ, hoa, biểu ngữ được trang hoàng khắp mọi nơi. Cờ bay đỏ những cành cây, đỏ những mặt hồ. Trong những ngày lễ, Đền Hùng càng đông khách thập phương đến tham quan và thắp hương, tưởng nhớ ghi dấu công ơn của các vua Hùng. Đền Hùng vừa là thắng cảnh đẹp, vừa là một di tích lịch sử — văn hóa đặc biệt quan trọng đối với người Việt Nam. Về với Đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc, để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của mỗi người dân Việt Nam!Trẩy hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội Đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 9 Thuyết minh danh lam thắng cảnh Đền Hùng. Ngoài ra các bạn có thể tham khảo thêm các bài văn mẫu lớp 9 khác được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn tiếp theo Thuyết minh về hát then và cây đàn then trên vùng Cao – Lạng
về với đền hùng